Toàn văn báo cáo chính trị của đồng chí Hiệu trưởng trong lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Trường và đón nhận danh hiệu Anh Hùng Lao Động

Trường Đại học Sư phạm (trước 1994 là trường Đại học Sư phạm Việt Bắc) được thành lập theo Quyết định số 127/CP ngày 18/7/1966 của Hội đồng Chính phủ. Năm 1994, Chính phủ quyết định thành lập Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm trở thành trường thành viên. Trường hiện có 14 khoa, bộ môn trực thuộc; 10 phòng, ban chức năng; 1 viện nghiên cứu, 1 trường thực hành và 5 trung tâm. Số cán bộ viên chức là 580 người gồm 400 giảng viên, trong đó có 30 giáo sư và phó giáo sư, 150 tiến sĩ, 215 thạc sĩ (hiện có 80 giảng viên đang học NCS trong và ngoài nước); 14 Nhà giáo nhân dân và nhà giáo ưu tú. Tỉ lệ tiến sĩ đạt gần 40%.

Trường đang đào tạo 26 chương trình cử nhân sư phạm (3 chương trình chất lượng cao), 23 chuyên ngành thạc sĩ, 13 chuyên ngành tiến sĩ và các chương trình cấp chứng chỉ bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục với tổng số sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh đang học tập, nghiên cứu tại Trường trên 11.000 người, trong đó có gần 300 lưu học sinh quốc tế.

Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Sư phạm đã phát huy mạnh mẽ nội lực, đoàn kết, năng động và sáng tạo, khai thác tối đa các nguồn lực, đến nay đã vững vàng về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu mới về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.

Đặc trưng cơ bản qua 50 năm phát triển của Trường là coi trọng tính đại học, tính sư phạm và duy trì bản sắc. Triết lý giáo dục của nhà trường mà cán bộ giảng viên thấm nhuần, đó là: Người học là lý do tồn tại và động lực phát triển của nhà trường. Với sứ mạng và triết lý nêu trên, Trường Đại học Sư phạm đã xây dựng được một tập thể đoàn kết, năng động, sáng tạo, chủ động đi đầu trong đổi mới giáo dục, xứng đáng là lá cờ đầu trong hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên trong khu vực và cả nước.

Phần I. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

1. Giai đoạn 10 năm đầu thành lập (1966 – 1975)

Năm 1966, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ ở miền Bắc ngày càng ác liệt, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc là một trong hai trường đại học sư phạm đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và là Trường Đại học Sư phạm duy nhất ở khu vực miền núi phía Bắc được thành lập. Địa điểm đầu tiên của Trường đặt tại khu sơ tán thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái, với mục tiêu đào tạo cán bộ giáo dục cho vùng Việt Bắc. Từ 164 cán bộ và trên 400 sinh viên ngày đầu thành lập, sau 10 năm Trường đã có đội ngũ cán bộ, giảng viên gần 400 người với quy mô đào tạo trên 1.500 sinh viên. Sau 5 khóa đào tạo đã cung cấp 2.291 giáo viên cho các trường sư phạm, trường phổ thông các cấp. Trong 10 năm này, nhiều cán bộ và sinh viên của trường đã tình nguyện lên đường nhập ngũ, chiến đấu dũng cảm; 427 cán bộ, sinh viên có mặt ở chiến trường miền Nam, trong số đó, 20 người đã anh dũng hy sinh và được Đảng và Nhà nước công nhận liệt sĩ. Mãi mãi các thế hệ CBVC và SV nhà trường ghi ơn các anh hùng liệt sĩ, các nhà giáo đã cống hiến, đã hy sinh. Nhớ ơn những người đi trước, các thế hệ tiếp nối tự hào đã tô thắm lá cờ truyền thống vẻ vang của nhà trường.

2. Giai đoạn trước đổi mới (1976 – 1986)

Sau ngày thống nhất đất nước, nhà trường đã nỗ lực xây dựng đội ngũ, xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đào tạo. Cuộc chiến tranh biên giới Tây – Nam (1978), chiến tranh biên giới phía Bắc (1979) xảy ra, đã có hàng nghìn giảng viên và sinh viên của nhà trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ vững chắc biên cương, hy sinh tuổi trẻ hoặc để lại một phần xương máu nơi chiến trường để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với những khó khăn chung của đất nước với muôn vàn vất vả, thiếu thốn về mọi mặt, nhưng tập thể cán bộ, giảng viên, sinh viên của Nhà trường vẫn đoàn kết, nỗ lực vượt qua tất cả để hoàn thành nhiệm vụ. Chặng đường 10 năm khó khăn này, Trường đã đào tạo được gần 3000 sinh viên tốt nghiệp ra trường, phục vụ chủ yếu cho các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc. Đội ngũ cán bộ của Nhà trường có sự phát triển về quy mô và chất lượng với 520 cán bộ, trong đó giảng viên là 275 người, 3 PGS, 32 TS. Bài học được tổng kết ở giai đoạn này là: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khó, nếu đồng lòng quyết tâm, yêu nghề, yêu người thì chúng ta vẫn có thể thi đua dạy tốt học tốt để nuôi giữ ngọn lửa đam mê và trách nhiệm với sự nghiệp trồng người.

3. Giai đoạn 20 năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 – 2006)

Ở giai đoạn này, nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và kinh tế đã tác động lớn đến tư tưởng của cán bộ, sinh viên trong Trường. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề hết sức quan trọng được Đảng bộ, Ban Giám hiệu đặc biệt quan tâm là phải giữ vững lập trường tư tưởng, phẩm chất đạo đức của cán bộ, sinh viên, không dao động trước những biến động ngoài xã hội. Nhiều thay đổi về tổ chức, mô hình, chính sách đối với giáo viên, với trường sư phạm, tuy có tạo ra những thuận lợi khó khăn khác nhau nhưng Đảng ủy, BGH cùng tập thể CBVC không dao động, luôn hướng đến mục tiêu chất lượng. Trong 20 năm đầu đổi mới, từ 1986 đến 2006, Trường đã đào tạo được 35.000 giáo viên phổ thông, 874 thạc sĩ, cung cấp cho các địa phương nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục có đức, có tài; số cán bộ của trường 500 người, đội ngũ giảng viên có trình độ cao đã tăng lên: có 1 GS.TSKH, 6 PGS, 42 TS, 171 thạc sĩ. Giảng viên có trình độ sau đại học chiếm hơn 70%. Bài học lớn được rút ra trong giai đoạn này là: sẵn sàng, chủ động thích ứng với sự thay đổi; kiên trì mục tiêu, giữ vững niềm tin; tận dụng mọi cơ hội, tạo môi trường đào tạo giáo viên chuyên nghiệp làm tiền đề cho công cuộc đổi mới có hiệu quả.

4. Giai đoạn 10 năm xây dựng đơn vị Anh hùng (2006 – 2015)

Trong lịch sử 50 năm của nhà trường, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, sự đầu tư của nhà nước, toàn thể CBVC của nhà trường đã có những nỗ lực vượt bậc, kế thừa truyền thống vẻ vang, tiếp thụ nhanh chóng những yếu tố đổi mới để vươn lên không ngừng. Đặc biệt 10 năm trở lại đây, Trường Đại học Sư phạm được đánh giá là một trong những đơn vị dẫn đầu trong khối các trường sư phạm về xây dựng đội ngũ, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội cho các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và cả nước. Các kết quả thể hiện qua việc thực hiện xuất sắc 7 nhiệm vụ sau đây:

4.1. Thành tích trong đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Trong công cuộc đổi mới, nhà trường được đánh giá là đơn vị dám nghĩ dám làm, khắc phục khó khăn đi đầu trong đổi mới chương trình và phương thức đào tạo giáo viên. Trường đã khẳng định được thương hiệu và uy tín thông qua chất lượng nguồn nhân lực đã được đào tạo. Nhiều giảng viên và cựu sinh viên của Trường đã và đang đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo cao cấp ở Trung ương và địa phương: Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trường phổ thông, mầm non; Giám đốc các Sở ở nhiều tỉnh trên cả nước. Trên 70% cán bộ lãnh đạo quản lý giáo dục, nhiều cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp ở 20 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã từng học tập tại Trường. Nhiều người đã trở thành Nhà giáo ND, nhà giáo Ưu tú, Giáo sư, Tiến sỹ, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, nhà quản lý, giảng viên và giáo viên giỏi; đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan Đảng, chính quyền ở Trung ương và các tỉnh.

–  Nhiệm vụ phát triển công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên: Trường đã đào tạo cho đất nước trên 80.000 giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, trong đó có gần 3.000 thạc sĩ và tiến sĩ; bồi dưỡng hàng chục nghìn giáo viên các cấp. Người học của Trường được tuyển sinh từ 35 tỉnh, thành trong cả nước. Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm là đơn vị dẫn đầu cả nước trong đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ sinh viên là người dân tộc thiểu số từ khi thành lập đến nay gần 40%; Tất cả các tỉnh, thành trong cả nước đều có giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được Trường đào tạo. Đặc biệt, ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc, đội ngũ giáo viên do Trường đào tạo chiếm 80% giáo viên THPT và 40% giáo viên THCS, Tiểu học và Mầm non. Từ 7 ngành cử nhân (1966); 7 chuyên ngành thạc sỹ (1992) và 1 chuyên ngành tiến sĩ (2005) đến nay, Trường đang đào tạo 26 chương trình cử nhân sư phạm, 23 chuyên ngành thạc sỹ và 13 chuyên ngành tiến sỹ. Để đảm bảo chất lượng đào tạo, những năm gần đây trường đã chủ động giảm quy mô hàng năm từ 10-20%.

– Tích cực đổi mới hoạt động hợp tác quốc tế trong đào tạo giáo viên: Trường đã thiết lập các mối quan hệ hợp tác đào tạo với nhiều quốc gia như: Anh, Pháp, Mĩ, Hà Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtralia, Singapore, Thái Lan, Đài Loan…Trường đã và đang đào tạo, bồi dưỡng được hơn 500 lưu học sinh các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc. Hợp tác giáo dục và nghiên cứu khoa học với Lào được Trường ưu tiên như một nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Hiện tại có 224 lưu học sinh Lào đang học tập ở trường với nhiều chương trình khác nhau như bồi dưỡng Tiếng Việt, Đại học và Sau đại học.

– Chủ động đổi mới chương trình đào tạo giáo viên, đổi mới phương pháp giảng dạy và coi trọng kiểm định chất lượng giáo dục: Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, với quyết tâm đổi mới, trường đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của giảng viên về đổi mới chương trình đào tạo; đổi mới mục tiêu từ mô hình đào tạo giáo viên dạy môn học cụ thể sang mô hình đào tạo chuyên gia giáo dục có học vấn nền tảng rộng và sâu. Xây dựng kế hoạch đưa giảng viên và đưa SV xuống trường PT, ngoài các đợt thực tập sư phạm, hằng năm có 6000 lượt sinh viên xuống các trường phổ thông. Nhà trường chủ động đón đầu những định hướng đổi mới giáo dục, sử dụng các kênh thông tin từ nhà tuyển dụng, cựu sinh viên, sinh viên cuối khóa đánh giá lại chương trình đào tạo hiện hành, làm cơ sở vững chắc để phát triển chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng đổi mới. Nhà trường thực hiện kiểm định chất lượng từ năm 2009. Từ năm học 2012 – 2013, Trường đã mời nhà tuyển dụng từ các cơ sở đào tạo bên ngoài, thực hiện đánh giá hiện trạng sinh viên tốt nghiệp theo chuẩn đầu ra; được ngân hàng thế giới (WB) đánh giá cao về việc sớm đưa SV xuống trường phổ thông; xây dựng mối quan hệ bền chặt với giáo dục phổ thông trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Kết quả đánh giá từ nhiều kênh đã giúp nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao vị thế và uy tín của nhà trường, tạo niềm tin với xã hội và người học về chất lượng, đồng thời là cơ sở để công khai hóa kết quả đào tạo trước xã hội và nhà tuyển dụng; uy tín và ảnh hưởng của Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên thực sự đã lan tỏa trong cả nước.

4.2. Kết quả nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học

Trong 10 năm qua, Trường đã triển khai 5 đề tài cấp Nhà nước, hàng trăm đề tài cấp Bộ đã được phê duyệt qua tuyển chọn, đấu thầu. Các kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào việc phát triển chương trình đào tạo, đổi mới quản lí; đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. Các kết quả nghiên cứu cơ bản được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín ở trong và ngoài nước, đã công bố gần 2.500 bài báo trên các tạp chí quốc gia, 232 bài báo quốc tế, trong đó có nhiều bài báo xếp hạng trong danh mục SCI, SCIE; số sách và giáo trình được xuất bản 5 năm gần đây là 283 cuốn. Việc nghiên cứu khoa học hướng tới nhu cầu thực tiễn của địa phương đã tạo sự gắn kết bền vững giữa Trường và các Sở GD-ĐT, giúp Nhà trường phát triển những mô hình mới trong nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Hoạt động NCKH sinh viên luôn nằm trong tốp đầu các trường sư phạm. Trong 10 năm, Trường đã triển khai 3.603 đề tài khoa học sinh viên, trong đó nhiều đề tài đạt giải thưởng sinh viên NCKH toàn quốc: 59 giải thưởng cấp Bộ “Tài năng khoa học trẻ Việt Nam”, 72 giải Olympic; 10 năm liên tục Trường nhận Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào NCKH của sinh viên.

4.3. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ và tạo nguồn cán bộ quản lý và giảng viên cho khu vực miền núi phía Bắc và trong cả nước

Trường đã cung cấp trên 300 tiến sĩ cho các trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan quản lý các cấp. Chỉ tính riêng 5 năm gần đây Trường đã đào tạo được 45 tiến sĩ và hơn 1.000 thạc sĩ cho các cơ quan nghiên cứu và các cơ sở giáo dục (mở rộng đến Miền Trung, Tây Nguyên và Tây Nam bộ). Nhà trường đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, tập trung mọi nguồn lực để xây dựng được đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ cao. Trường đã có nhiều giảng viên có uy tín tham gia hoạt động đổi mới giáo dục của ngành và đã có nhiều đóng góp vào công cuộc đổi mới giáo dục, đặc biệt là phát triển chương trình giáo dục. Riêng 5 năm gần đây,Trường đã cử hơn nghìn lượt giảng viên đi bồi dưỡng trong nước và hàng trăm người bồi dưỡng ở ngoài nước; Nhà trường đang tập trung nguồn lực nâng chuẩn giảng viên về chuyên môn, ngoại ngữ và tin học.

4.4. Kết quả xây dựng cơ sở vật chất, đảm bảo đời sống cho CBVC; đảm bảo điều kiện tốt cho hoạt động chuyên môn

Cơ sở vật chất của Trường đảm bảo cho 100% giảng viên có phương tiện thiết yếu để làm việc trong môi trường giáo dục tích cực. Trường có 5 giảng đường lớn với gần 200 phòng học và 1 trường THPT thực hành, diện tích sàn xây dựng vượt chuẩn kiểm định, phòng thí nghiệm được trang bị các máy móc thiết bị hiện đại. Thư viện của Trường có diện tích gần 3000 m2, trên 13.000 đầu sách với hơn 262.000 cuốn; các thiết bị đảm bảo phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu của giảng viên và sinh viên; ký túc xá đảm bảo chỗ ở cho trên 40% sinh viên đã được nâng cấp; nhà ăn sinh viên khang trang hiện đại phục vụ hơn 1000 chỗ. Cùng với việc tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho giảng viên, Trường quan tâm đến việc chăm lo đời sống cán bộ viên chức với thu nhập ổn định, bình quân toàn trường gần 10 triệu đồng/tháng/người; hỗ trợ cán bộ đi học NCS, người khó khăn, có thu nhập thấp và nhiều chính sách hỗ trợ khác.

4.5.  Kết quả đổi mới đào tạo giáo viên theo Nghị quyết 29 của Đảng; nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ

Trước khi có Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Trường đã chủ động trong việc đề xuất, triển khai nhiều giải pháp  đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giáo viên. Năm 2009, Trường đã triển khai đề tài NCKH trọng điểm cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu của giáo dục phổ thông giai đoạn 2015 – 2020” và xuất bản tài liệu về “Phát triển chương trình đào tạo giáo viên” và “giảng dạy tích hợp” góp phần đổi mới giáo dục phổ thông. Đảng ủy đã xây dựng và thực hiện có hiệu quả 5 đề án nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nhà trường. Trường đã tập trung trí tuệ, nguồn lực để xây dựng và triển khai thực hiện 4 chương trình hành động. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tích hợp nhằm phát triển năng lực người học; xây dựng hàng trăm chuyên đề bồi dưỡng giáo viên. Những kinh nghiệm xây dựng chương trình đào tạo mới của trường đã được chia sẻ và trao đổi với nhiều trường sư phạm và các Sở GD-ĐT cả nước và đã được thừa nhận; thể hiện rõ nét trách nhiệm tư vấn cho giáo dục phổ thông qua việc đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.

4.6. Kết quả thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

Nhà trường luôn chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng nề nếp, kỷ cương, tuân thủ pháp luật. Trong hoàn cảnh xã hội đặt ra nhiều thách thức với ngành sư phạm, nhờ có tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao với sự nghiệp giáo dục của đất nước, đặc biệt là sự nghiệp giáo dục ở miền núi, tập thể cán bộ giảng viên của nhà trường đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, yên tâm gắn bó với Trường Sư phạm, với sự nghiệp đào tạo giáo viên. Trường đã thực hiện tốt cuộc vận động: “Dân chủ, kỷ cương, tình thương trách nhiệm”, là đơn vị thực hiện có hiệu quả cuộc vận động: “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và đáp ứng nhu cầu xã hội” ….Nhà trường là đơn vị điển hình trong việc thực hiện cuộc vận động: “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Những tiêu chuẩn thi đua của Trường đã được Công đoàn ngành giáo dục Việt Nam tham khảo và ban hành thành văn bản áp dụng chung trong toàn quốc.

4.7. Kết quả thực hiện các phong trào ở địa phương

Trường đặc biệt quan tâm và tham gia tích cực, hiệu quả, đóng góp vào sự thành công đối với nhiều hoạt động do tỉnh Thái Nguyên tổ chức; dẫn đầu về số lượng người tham gia và thành tích đạt được, góp phần tổ chức thành công các hoạt động lớn của tỉnh; chú trọng đến phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “nhường cơm sẻ áo” và ủng hộ các quỹ; nhận phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng; tặng quà cho giáo viên và học sinh ở vùng sâu, vùng xa của các tỉnh miền núi phía Bắc; giao lưu giáo dục với các chiến sĩ Hải quân; các đơn vị quân đội anh hùng… Trường tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo với mức đóng góp cao, thường xuyên được tỉnh và thành phố biểu dương; mỗi năm, bình quân cán bộ và sinh viên của Trường hiến từ 800 đến 1.000 đơn vị máu. Số tiền ủng hộ của cán bộ và sinh viên trong 10 năm gần đây lên tới hàng chục tỉ đồng.

Về thi đua khen thưởng, liên tục trong 10 năm qua, Đảng bộ nhà trường được Tỉnh uỷ Thái Nguyên công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh được nhận Cờ “Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu 05 năm”. Bằng khen của Tỉnh ủy Thái Nguyên do có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Tổ chức Công đoàn Trường liên tục đạt danh hiệu “Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc”, được tặng thưởng 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 2 Cờ thi đua xuất sắc của Công đoàn Giáo dục Việt Nam. Tổ chức đoàn Thanh niên và Hội sinh viên đã được tặng thưởng 1 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 8 Cờ thi đua và 24 Bằng khen.

Chỉ tính 5 năm từ 2010-2015, Trường đã vinh dự được Đảng, nhà nước tặng thưởng: 1 Huân chương Độc lập hạng Nhất; 11 Cờ thi đua xuất sắc (2 Cờ của Chính phủ, 4 Cờ của Bộ GD&ĐT, 4 Cờ của tỉnh Thái Nguyên và 1 Cờ của Bộ Công an); 27 Bằng khen Tỉnh, Bộ, Ngành cho tập thể Trường. Đặc biệt, ngày 30/11/2015, Trường Đại học Sư phạm vinh dự được Chủ tịch nước kí phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

Những kết quả và thành tích trong 50 năm qua, trước hết thuộc về CBVC và cựu SV qua các thời kì đã dầy công xây dựng và cống hiến; thành tích rất đáng tự hào này thuộc về các thế hệ tiền nhiệm đã tạo dựng nền móng cho các thế hệ tiếp nối; vinh dự và tự hào này thuộc về các cán bộ lão thành và cựu sinh viên của nhà trường 50 năm qua. Ngày hôm nay, các CBVC và SV nhà trường rất trân trọng và biết ơn các thế hệ tiền nhiệm, các thầy giáo cô giáo nguyên là giảng viên và CBVC của nhà trường qua các thời kì; các cựu giảng viên và sinh viên từ ngày thành lập trường; biết ơn Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm giúp đỡ nhà trường 50 năm qua; biết ơn các CBVC và người học đã nỗ lực, sát cánh cùng với tập thể BCH đảng ủy, BGH nhà trường để có được vinh dự ngày hôm nay.

Phần II. NHỮNG BÀI HỌC VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHÀ TRƯỜNG

Trải qua nửa thế kỉ trưởng thành, tổng kết đánh giá một chặng đường phát triển, Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường cùng toàn thể CBVC và SV đã rút ra 5 bài học lớn sau đây:

1. Bài học về tinh thần đoàn kết nhất trí trong nhà trường, đoàn kết gắn liền với dân chủ, sáng tạo và đổi mới; đoàn kết nhất trí cao trong đảng, chính quyền, giữa mọi thành viên trong nhà trường sẽ quyết định mọi thành công.

2. Bài học về huy động mọi nguồn lực là nhân tố cơ bản giúp nhà trường phát triển bền vững; sức mạnh nội lực là nền tảng, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức và tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước, sự ủng hộ của các đơn vị liên kết trong nước và quốc tế; chủ động tạo ra các cơ hội trong quá trình phát triển nhà trường.

3. Bài học về chiến lược đổi mới phải tạo ra sức mạnh tổng hợp từ nhận thức và hành động của mọi thành viên trong nhà trường; quá trình đổi mới và phát triển phải xác định đúng trọng tâm; phải được chuẩn bị kĩ lưỡng, có đầy đủ luận cứ khoa học và thực tiễn; bắt nhịp với tư tưởng tiến bộ của thời đại và hướng đến tiêu chuẩn quốc tế; được thực tiễn thừa nhận và đánh giá – đây cũng là những giá trị để khẳng định uy tín và học hiệu của nhà trường trong 10 năm đổi mới.

4. Bài học về sự quan tâm đến chất lượng đào tạo, đến người học; với phương châm “người học là mục tiêu, động lực phát triển của nhà trường”. Trải qua 50 năm, dấu ấn đọng lại từ mái trường này đối với các cựu sinh viên chính là sự quan tâm, trách nhiệm và sự tận tụy của các thế hệ thầy cô giáo đối với người học. Điều này sẽ tạo ra sức cảm hóa lớn hơn rất nhiều những lời giáo huấn-và đây cũng là giá trị bền vững qua mọi thời đại, đặc biệt là đối với sự nghiệp trồng người.

5. Bài học về sự quan tâm đến con người-nhân tố quyết định mọi thành công. Sự quan tâm của nhà trường đến đời sống vật chất và tinh thần của CBVC và SV với mục tiêu chính là tạo ra một môi trường GD hấp dẫn; gắn bó mật thiết giữa lợi ích của các thành viên trong nhà trường với mục tiêu chung; tạo điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục và đây cũng chính là nhân tố quyết định những thắng lợi của nhà trường trong 50 năm qua.

Phát huy truyền thống 50 năm xây dựng và phát triển, với niềm vinh dự và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đổi mới, Trường Đại học Sư phạm xác định những định hướng cơ bản trong những năm tới:

1. Tiếp tục xây dựng khối đoàn kết, nhất trí toàn trường; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, chủ động dám nghĩ dám làm; quyết tâm xây dựng nhà trường trở thành trung tâm đào tạo giáo viên chuyên nghiệp, có uy tín và chất lượng cao của cả nước.

2. Đổi mới toàn diện công tác quản lý trong bối cảnh tự chủ đại học, đặc biệt coi trọng công tác xây dựng đội ngũ về năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn; nâng tầm học vấn về giáo dục đại học, năng lực ngoại ngữ và tin học cho giảng viên đạt chuẩn để hội nhập quốc tế.

3. Giữ vững quy mô đào tạo cân đối và hợp lý, coi trọng chất lượng đào tạo; chú trọng công tác xây dựng, phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 29-NQ/TW của Đảng và Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã được Chính phủ phê duyệt.

4. Nâng cao khả năng ứng dụng của các đề tài, dự án khoa học gắn với quá trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đặc biệt là lĩnh vực hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học giáo dục.

5. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật; cải cách mạnh mẽ hành chính; tăng cường pháp chế; đẩy mạnh công tác kiểm định và đánh giá ngoài; coi trọng nền nếp kỉ cương trong mọi hoạt động của nhà trường.

6. Đổi mới toàn diện công tác giáo dục người học theo hướng: tôn trọng, khuyến khích người học tự do sáng tạo trong môi trường giáo dục hiện đại; coi trọng việc giáo dục lý tưởng sống, kĩ năng nghề nghiệp và lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội;

7. Tăng cường điều kiện đảm bảo chất lượng; tăng nguồn lực tài chính; nâng cao thu nhập cho cán bộ, giảng viên và điều kiện học tập cho người học, xứng đáng là địa chỉ tin cậy, là môi trường giáo dục hấp dẫn của cả nước.

Trong bối cảnh hiện nay có nhiều thuận lợi nhưng cũng rất nhiều thách thức đang đặt ra, đòi hỏi toàn thể CBVC và SV nhà trường phải quyết tâm cao, phát huy thành quả đạt được, khắc phục các hạn chế. Mục tiêu xây dựng nhà trường đoàn kết, dân chủ, trí tuệ, sáng tạo –cũng chính là những giá trị cốt lõi cần phải giữ gìn và phát triển. Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt 50 năm qua mà mỗi thành viên nhà trường luôn ý thức để nâng Trường ĐHSP thuộc ĐH Thái Nguyên lên một tầm cao mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng, của Nhà nước và Nhân dân. Tập thể BCH đảng bộ, cán bộ viên chức và sinh viên nhà trường cam kết sẽ: tăng cường đoàn kết, kế thừa truyền thống, phát huy dân chủ, khơi nguồn sáng tạo, chủ động và mạnh mẽ hơn trong sự nghiệp đổi mới để xứng đáng với Danh hiệu Anh hùng. 

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai.